Thiếu Lâm
www.vuiveclub.net
Một dòng họ vượng phát bởi hai cuộc đất một âm (mộ Tổ) một dương (nhà thờ họ) như một cặp "thư hùng".
Ai qua Hải Dương nhiều lần chắc không thể không biết câu chuyện về dòng họ Vũ nổi tiếng khoa bảng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam 1200 năm qua. Là một người họ Vũ tác giả không muốn đi quá sâu phân tích phong thuỷ của hai cuộc đất này mà chỉ muốn nhắc đến nó như là một chứng nghiệm mà thôi.
Ngược dòng lịch sử khoảng 1200 năm về trước nước Việt khi đó đang bị đô hộ bởi nhà Đường Gia phả của dòng họ còn chép lại :
Những Làng khoa bảng nổi tiếng Việt Nam :
Xin được trích dẫn một số bài viết của các tác giả khác để làm dẫn chứng :
a- Thôn Linh khê, Xã Thanh Quang huyện Nam Sách
Thật khó có thể tìm được một làng quê có vẻn vẹn 1075 nhân khẩu, với 300 hộ gia đình, mà trong đó có đến 150 cử nhân các ngành, 7 thạc sĩ, hơn 80 giáo viên các cấp, 50 sinh viên đại học, 1 tiến sĩ tương lai đang làm luận án tại Nhật Bản. Đó là thôn Linh Khê, xã Thanh Quang (Nam Sách - Hải Dương).
Linh Khê, một làng quê bé nhỏ nằm nép mình bên dòng sông Kinh Thầy, nơi cách đây mấy chục nǎm đã ghi nhận sự trưởng thành của thầnđồng thơ Trần Đǎng Khoa; và cách xa hơn 7 thế kỷ là sự xuất hiện lừng lẫy của Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Cạnh tấm bia cổ của di tích, ông Đỗ Minh Hoàng, một nhà giáo về hưu cho biết, từ xa xưa dân làng Linh Khê đã có ước muốn được đem cái chữ, kiến thức của đạo làm người dạy bảo học sinh. Chính vì thế, hết thế hệ này nối tiếp thế hệ kia mà đến nay trong cả thôn đã có tổng cộng 85 người làm nghề dạy học ở mọi cấp, mọi nơi.
Lướt nhanh ngón tay, nhà giáo Đỗ Minh Hoàng đã bấm được sơ sơ gần chục gia đình có tới ba đời làm nghề dạy hoc như gia đình cụ Lương Quang Diễn, những gia đình có từ hai giáo viên trở lên thì không thể nhớ hết.... Cá biệt có gia đình cụ Đỗ Vǎn Dần có tổng cộng 10 người làm nhà giáo.
Nǎm nay, cả thôn có hơn mười người đi thithì có tới 7 em đỗ đại học với số điểm cao vào các trường “rắn” như: ĐH Bách Khoa, ĐH Xây Dựng, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền,...
Làng Linh Khê đã chứng kiến rất nhiều câu chuyện cảm động đến chảy nước mắt về các gia đình nuôi con học đại học. Nào thì nhà bán ruộng, bán đất; nào thì nhà bố mẹ làm lụng vất vả, bữa cơm chỉ có quả cà bát canh để còn dành dụm từng đồng, tháng tháng gửi cho các con; có nhà thì ông bố sẵn sàng đi đào mộ thuê vào dịp cuối nǎm cũngchỉ với một mục đích duy nhất là để kiếm tiền cho con ǎn học.
Khó khǎn là vậy, nhưng dân làng Linh Khê cũng vì thế mà ngày càng toả sáng hơn với thế hệ trẻ hôm nay. Những tấm bằng kĩ sư, cử nhân mà con em quê hương đạt được ngày một nhiều.
b- Bắc Cổ Am nam Hành Thiện
Quê hương Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Quê hương Vương Quốc Chính, thủ lĩnh Tín nghĩa hội 1879 chống Tây cứu nước.
Tôi cùng kiến trúc sư Phạm Vũ Hội về Cổ Am, theo con đường mà có lẽ ngày xưa Trạng Trình đã đi từ kinh đô về quê để ở ẩn, khi ông chán ngấy cái triều đình nhà Mạc suy đốn. "Thôi thôi mặc lũ thằng hề/Gió mây ta lại tìm về gió mây" (Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - NBK).
Phạm Vũ Hội là một người đa tài. Anh thiết kế kiến trúc, làm thơ, soạn nhạc và nặn tượng. Anh nặn tượng, danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm và nghiên cứu về Trạng Trình với lòng sùng kính một thiên tài. Phạm Vũ Hội còn là tác giả của dự án tôn tạo khu di tích Trạng Trình thuộc vực Cổ Am - Lý Học.
Chúng tôi đến bến phà Khuể. Con sông Văn Úc sóng cuồn cuộn đổ ra biển Đông. Lòng sông rộng, nước vàng đục màu phù sa diễu quanh thân phà - Thuỷ sắc ngưng hoàng lục nhiễu hàng (Quá thao Giang – NBK). Cứ theo thơ vãn của Trạng Trình mà suy thì có lẽ khi qua sông này cũng đã cảm khái nhớ tới Xích xích tuyệt xướng của Tô Đông Pha với câu mở đầu: "Đại Giang Động Thứ, lãng đào tận, thiến cổ phong lưu nhân vật..."- Sông lớn chảy về Đông, cuốn trôi hào kiệt nghìn đời...".
Bên kia sông Vãn Úc là huyện Tiên Lãng, có làng An Tử Hạ, quê vị khoa bảng Nhữ Văn Lan, ông ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là vị tố của họ Nhữ, đỗ tiến sĩ năm 1463, đời Lê, làm đến chức Thượng thư bộ Hộ; sau được thờ ở đình miếu làng An Tử Hạ. Họ Nhữ còn có nhiều người đỗ đại khoa. Ngôi đền An Tử Hạ thờ Nhữ Văn Lan đã bị giặc Pháp đốt phá, nhưng tượng và biển tiến sĩ của ông vẫn còn. Một người con của Nguyễn Bỉnh Khiêm sang quê ngoại lập nghiệp, thành một chi họ Nguyễn lớn ở Tiên Lãng. Ở đây còn có khu Mả Nghè, nơi an táng vợ chồng Nhữ Văn Lan và con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Qua thị trấn Tiên Lãng, đến bến Hàn, nhưng không phải đi đò như ngày xưa mà có cây cầu phao bắc qua sông. Sông Hàn còn gọi là Tuyết Giang. Xưa, bên sông này có quán Trung Tân, nơi Trạng Trình ngồi ngâm vịnh, viết những bài Ngụ hứng và nghiền ngẫm thế cuộc, thiên cơ, quốc vận.
Chợt nhớ câu thơ của Tuyết Giang phu tử (NBK): "...Phong ổn phàm quy hàn phố nguyệt/Thiên tình long hiện viễn sõn vân..." (Gió lặng buồm xuôi về bến lạnh/Trời mây rồng hiện đỉnh non xa. - Trung Tân quán ngụ hứng).
Qua sông Hàn, chúng tôi đi dọc theo đường số 354 đến địa phận Lý Học - Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, vùng đất nổi danh. Phạm Vũ Hội bảo tôi:
- Cụ Trạng tiên lượng việc vị lai như thần. Cái câu ''Bao giờ Tiên Lãng chia đôi, sông Hàn nối lại thì tôi lại về", đến bây giờ mới rõ. Cái năm cầu phao sông Hàn được bắc nối hai huyện Tiên Lãng - Vĩnh Bảo; con sông đào cổ xưa chảy ngang qua Tiên Lãng bị bỏ lấp từ lâu được khơi lại; thì ngay sau đó rộ lên hội thảo, sưu tầm khảo cứu về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được in ra, cả ''Sấm Ký Trạng Trình'' nữa. Thiên tài của Người đã được công nhận và tôn vinh. Thế là Người đã về đúng với ngôi vị của mình. Một thời Sấm Ký bị coi là sách mê tín dị đoan. Bây giờ dùng Lý học mà suy thì có nhiều việc đã xảy ra rất linh nghiệm.
Phạm Vũ Hội giao thiệp với hoạ sĩ Giang Phiếm, là cháu đời thứ mười sáu của Trạng Trình đã đổi thành họ Giang. Một thời cả dòng tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm phải thay tên đổi họ, ly tán thập phương.
Cổ Am nổi tiếng vì vùng đất này sinh nhiều bậc tài danh ở mọi thời. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà khi ra đời, theo giai thoại, quan chiêm bốc chuyên theo dõi thiên tượng của triều đình Bắc phương đã dâng biểu tấu: ''Có ngôi sao lạ to bằng cái đấu xuất hiện ở phương Nam, ứng với một chân nhân đã ra đời''. Sau này, Nguyễn Bỉnh Khiêm được phong tước Trình Tuyền hầu (nên mới gọi là Trạng Trình), Chu Sán, danh sĩ đời nhà Minh nhận xét: ''An Nam Lý học hữu Trình Tuyền'' - Nước Nam có Trình Tuyền hầu thông hiểu Lý số. Có lẽ vì thế mà đất Trung Am, nơi có Đền Trạng bây giờ được gọi là Lý học.
Cổ Am trước khi Trạng Trình xuất thế, có nhiều địa danh mang những tên nôm na để quy ước, chỉ dùng cho mỗi việc định vị địa điểm, như ở nhiều các làng quê khác. Vậy mà khi Trạng Trình về quê ở ẩn thì xuất hiện những tên văn chương: quán Trung Tân, Am Bạch Vân, sông Tuyết Giang, gò Bút Kình Thiên, Nghiên Long Đồ, bãi Lý Ngý Quần Ngọc, cầu Trường Xuân... Về cây cầu Trường Xuân, Phạm Vũ Hội kể: Trước khi phong Trạng nguyên cho thí sinh đỗ đầu khoa thi Đình, vua Tự Đức sát hạch thêm; Ngài hỏi về cầu Trường Xuân. Thí sinh này quê đất Vĩnh Lại, Đông Hải, kinh sử thuộc làu làu, nhưng lại không biết gì về cầu Trường Xuân. Vua hỏi thí sinh đỗ thứ hai quê ở miền Trung. Người này thưa rằng cây cầu đá ấy ở Cổ Am do Trạng Trình cho xây cất để dân đi làm đồng áng đỡ vất vả, trên thân cầu có chữ ''Thường Xuân Kiều'' do chính tay Trạng viết. Sĩ tử đỗ đệ nhất khoa bị giáng xuống thứ ba vì không thâm hiểu về bản quán của mình và về Trạng Trình, phải nhường lại danh khôi nguyên cho anh chàng miền Trung nọ. Vua không vui, cho rằng làm quan mà không thấu hiểu quê hương đất nước thì trị dân sao được. (Phiến đá khắc chữ 'Trường Xuân Kiều'' nay vẫn còn).
Phạm Vũ Hội nói tiếp:
- Cả vùng đất này xưa là Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. Thập bát trang Am, có mười tám trang mang tên Am. Thượng Am, Hạ Am, Trung Am, Đông Am, Nam Am, Lạng Am, Tiền Am, Liên Am, Ngãi Am, Hội Am v.v... Trạng Trình về quê ở ẩn, xây quán Trung Tân ở bến Trung Lệ bên bờ Tuyết Giang, dựng Am Bạch Vân. Người làm hàng nghìn bài thơ Hán, Nôm và Bạch Vân thí tập, Trình Quốc công thi tập... Người còn chủ trương xây chùa tôn thờ các danh nhân; bắc cầu giúp dân. Cổ Am khi ấy rất nghèo. Trạng mở trường dạy học. Người đọc sách thánh hiền đều biết: Kiệt, Trụ ác vương vô đạo ngược đãi trung thần, chí sĩ; chà đạp lễ nghĩa khiến trăm họ ngu hèn để dễ bề cai trị, muôn đời sau còn oán hận. Nghiêu, Thuấn khuyến nông, huấn học làm cho thiên hạ được sống trong thái bình thịnh trị, tiếng thơm ngàn nãm. Nhân tài chẳng tự nhiên mà có như hoa dại bên đường. Để khuyến học, Trạng Trình cho dựng một trụ đá cao trên đỉnh cái gò đầu làng, đặt tên là Bút Kình Thiên.
Chúng tôi đứng lặng ngắm gò đất có những cây sà cừ, bạch đàn đứng thẳng tắp với dáng những ''quản bút chống trời". Trụ đá nay không còn nữa nhưng vẫn còn ngôi miếu cổ tôn nghiêm.
Những cái tên ở Cổ Am thoạt nghe thấy có vẻ chữ nghĩa quá; không nôm na cụ thể như những vùng quê khác để dân quê dễ nhớ. Nhưng ngẫm ra Trạng đâu phải là người khoe chữ. Cổ Am đáng được đặt những tên như thế lắm vì đất này có không ít các bậc khoa bảng đỗ đạt cao ở mọi thời. Trần Lương Bật đỗ tiến sĩ năm 1664, đời Hậu Lê, làm đến chức Hữu thị lang bộ Binh, khi mất còn được truy phong chức Tả thị lang. Trần Công Hân đỗ tiến sĩ năm 1733, thời Hậu Lê; giữ chức Đãi chế Viện Hàn lâm; đi dẹp giặc bị tử trận, được truy phong Đông Các Đại học sĩ. Lê Huy Thái đỗ Phó bảng năm 1846, đời nhà Nguyễn.. .
Sau này Cổ Am còn có hai nhà văn nổi tiếng trên vãn đàn Việt Nam một thời, đó là hai anh em Trần Tiêu, Trần Khánh Dư (tức Khái Hưng trong Tự Lực văn đoàn). Chùa Đông A ở đây do Trần Mỹ, phụ thân của hai nhà văn bỏ công tạo dựng.
Theo các thần phả, thần tích và Từ đĩển Bách khoa Địa danh Hải Phòng thì, cùng với những làng xã thuộc Vĩnh Bảo, Cổ Am thờ nhiều vị thần làm thành hoàng vì có công chống giặc ngoại xâm trong các cuộc bình Chiêm, chinh Man, cự Nam Hán, phá Tống, diệt Nguyên - Mông. Dân Cổ Am dù nghèo nhưng cũng lập đền miếu khang trang để tôn thờ những người bảo hộ dân, những vị quan thương dân như con. Đình, miếu Cổ Am thờ bốn vị thành hoàng trong đó có Không Hoàng đại vương, một vị quan đời Lý, bỏ của riêng phát chẩn cho dân vào năm mất mùa. Nam Hải đại vương tức quan Thái uý Tô Hiến Thành đời Lý, đi tuần qua làng đã ban ơn cho dân chúng. Cổ Am có chùa Mét là công trình kiến trúc đẹp do Trần Khắc Trang chủ xưởng xây cất Hai nhà văn Trần Tiêu và Khái Hýng đều là di duệ của Trần Khắc Trang.
Cổ Am có những dòng họ nổi tiếng. Ngoài họ Nguyễn với Trạng Trình Lưỡng quốc anh hùng không đối thủ, như các môn đệ tôn vinh ông sau này; còn có họ Trần, một họ lớn vốn ở Tức Mạc (Nam Hà) di đến đây khai hoang lập ấp. Theo gia phả họ Trần ở Cổ Am, một vọng tộc có nhiều nhà khoa bảng, thì thủy tổ họ Trần là một vị tướng chỉ huy cánh quân phía Bắc trong trận Hàm Tử nổi tiếng năm 1407, bị trọng thương, được đưa về Cổ Am dưỡng thương rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây.
Cổ Am vào thời nào cũng có hào kiệt. Vương Quốc Chính, đời nhà Nguyễn năm 1879 lập Tín nghĩa Hội, chủ trương bình Tây phục quốc, từng đem nghĩa quân đến tận thành Hà Nội tiến công tập kích quân Pháp. Đầu năm 1930, Trần Quang Diệu, Đào Vãn Thê khởi nghĩa chống Pháp, giết tri phủ, đánh chiếm huyện lỵ, khí thế ngùn ngụt. Robin, thống sứ Bắc Kỳ đã cho máy bay ném xuống Cổ Am đến nãm mươi bảy quả bom (một con số đáng kinh hoàng vào thời đó), rồi dàn quân càn quét, đốt phá; nhưng đã không khuất phục được vùng đất phát tích những bậc kiệt hiệt song toàn văn võ.
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nếu ở quê ngoại của Trạng Trình nổi danh "Tiên Lãng chống càn", thì Vĩnh Bảo - Cổ Am quê nội của Người cũng lừng lẫy với những chiến công diệt giặc trên đường số 10. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không thể thống kê những chiến tích, những hy sinh của người Cổ Am trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc sau này bằng những con số đáng thán phục được viết bởi những bàn tay chuyên cửi canh dệt vải, dệt chiếu, trồng trọt và làm sơn mài...
Nghề dệt chiếu ở đây đã có từ lâu đời và rất phát đạt. Cho dù chiếu ni-lông, chiếu tre, chiếu gỗ đã từng được coi là thời thượng, thì rồi người ta vẫn cứ nằm chiếu gon dệt cói. Biết đâu cái cô gái bán chiếu gon xưa ở Tây Hồ đã làm Ức Trai tiên sinh cảm động sinh tình ở tuổi bảy mươi lại có dây mơ rễ má với đất Cổ Am này? Tôi đã nhìn thấy cảnh những cô gái dệt chiếu. Động tác luồn cói, giật khung, rồi đặt khuôn hoa phết màu; cứ thoăn thoắt nhịp nhàng, mạnh mẽ mà uyển chuyển; bền bỉ thường nhật, nên thân hình các cô rất thẩm mỹ. Khi một mẻ chiếu hoa được đồng loạt phơi dưới nắng, màu sắc rực rỡ bừng lên như ngày hội.
Kiến trúc sư Phạm Vũ Hội nói với tôi về cái dự án tâm huyết của anh:
- Tôi muốn tu tạo những di tích Trạng Trình ở vùng Cổ Am và bên quê ngoại của Người như nó đã từng có theo cảnh sắc của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, và phải giữ vững "chân long'' với những nguyên tắc về Phong thủy. Nên đầu tư một cách tinh tế vào khu Đền Trạng. Thế nhưng người ta đã mở ra một quy hoạch bề rộng, dùng hệ thống giao thông bàn cờ; lại thêm những cột đèn cao áp hình tàu chuối. Nhiều cây cối bị chặt quang làm mất đi vẻ u tịch. Lại còn đào một cái hồ rất lớn, xây kè bờ, lát gạch lá dừa lối đi quanh hồ như một công viên thành phố, theo xu hướng ''đô thị hoá'' hiện nay. Có lẽ lại phải chờ cho đến khi người ta hiểu ra được rằng phải giữ lấy cái tinh thần đạm bạc mà thanh cao của Tuyết Giang phu tử.
*
Chúng tôi đi qua cánh đồng trồng thuốc lào. Những cây thuốc thân thấp mập mạp lá to đang kỳ bánh tẻ, mùi thuốc lá thoảng lẫn trong vị ngọt ngào của ngô non và đòng đòng quanh đấy, như một sự tẩm ướp tinh tế.
Tôi sực nhớ: Cổ Am thuộc xứ thuốc lào. Ai cũng biết câu ca dao: ''Nhớ ai như nhớ thuốc lào/ Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên". Một hơi thuốc rút đến kiệt lửa đóm, rồi phả khói mù mịt làm cảnh vật trước mắt chập chờn ẩn hiện như thực như ảo: ''Thoáng bóng ai về trong khói thuốc/Mắt cười lúng liếng lá răm tươi...”
Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và tập Đồng Khánh dư địa chí lược gọi cây thuốc lào là Tương tư thảo.
''Tương tư thảo'' - Cổ Am, vùng đất văn nhân hào kiệt có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc kỳ tài, và có một loài cây kỳ thú mang cái tên gợi thương nhớ như vậy.
c- Nam Hành Thiện
Từ huyện lỵ (mới) huyện Xuân Trường, Nam Định đi qua giáo phận Bùi Chu, mất khoảng mười phút xe ô tô là đến làng Hành Thiện. Hành Thiện là ngôi làng cổ thuộc hành lang phủ Thiên Trường, cái tên Hành Thiện có từ đời Lê Trung Hưng thứ nhất, năm 1454.
Hành Thiện, tạm giải nghĩa là nơi chỉ làm những điều lành, điều thiện. Bản đồ làng Hành Thiện mang hình một con cá chép: đầu hướng Nam, đuôi hướng Bắc, bụng hướng Tây, lưng hướng Đông. Nơi đầu cá có miếu thờ thần Tam giáp, người có công đầu tạo lập làng. Nơi bụng cá là chợ Hành Thiện, một cái chợ quê rất đông đúc. Khu dân cư ở từ mang cá đến rốn cá, được chia thành 14 khúc, mỗi khúc cách nhau 60 mét. Chiều sâu của khúc dài nhất là 600 mét, khúc ngắn nhất là 200 mét. Mỗi khúc gọi là một dong. Dong dài được chia làm hai xóm, dong ngắn là một xóm. Từ rốn cá đến đuôi cá là ưng điền (ruộng gieo mạ) và nghĩa trang nhân dân của làng. Đuôi và vây sau của "con cá" có ngôi chùa Keo, xây dựng năm 1588. Theo xã chí của làng thì Hành Thiện xưa là vườn kim quất của vua Trần. Chạy dọc từ đầu tới đuôi Cá, sâu chuỗi 14 nãm là một con đường trục của làng lát gạch nghiêng. Đã hàng trăm năm con đường này hình thành nên hai dãy nhà hai bên như một đường phố, có các cửa hàng cửa hiệu buôn bán sầm uất.
Theo cách nhìn của các nhà tử vi thì hình dáng của làng Hành Thiện ở thế cá hoá rồng. Phía ''bụng cá'' giáp làng Ngọc Tiên có hình giống một nghiên mực; phía "lưng cá'' giáp làng Hương Phúc có mảnh đất giống cái ngòi bút. Đầu cá Thành Hoàng ngự, làng sẽ giữ được bản sắc thuần phong. Đuôi cá Nguyễn Minh Không vừa là Thiền sư vừa là thi nhân ngự. Vậy luận theo Phong Thủy và Kinh Dịch thì Hành Thiện là đất phát tiết cho cả chính khách và thi nhân.
Từ xa xưa vùng này đã có câu ngạn ngữ ''Bắc Cổ Am, Nam Hành Thiện'' ngụ ý: làng Cổ Am thuộc tỉnh Hải Dương xứ Đông xưa (nay là Vĩnh Bảo - Hải Phòng) cùng với làng. Hành Thiện của Nam Định có nhiều người học hành đỗ đạt cao. Tại làng Hành Thiện còn có câu ''Trai học hành, gái canh cửi'' để nói rằng cái đáng trọng nhất của con trai Hành Thiện là chuyện đèn sách; cái đáng yêu nhất của con gái Hành Thiện là chuyện kéo tơ, dệt vải. Con gái canh cửi thường trắng nõn nà, khéo tay, chăm chỉ. Đọc thơ Sóng Hồng ta cũng đủ thấy cái không khí của Hành Thiện:
Trăng xuống làm gương em chải tóc
Làm đèn anh học suốt đêm dài
Chẳng hiểu các thầy địa lý chủ quan và khách quan đến đâu nhưng bao đời nay không ai về thăm Hành Thiện lại không thừa nhận: Hành Thiện là một làng địa linh nhân kiệt, khoa danh vang lừng khắp nước. Thời Nho học, làng Hành Thiện có 419 người đỗ đạt. Trong đó: 7 đại khoa (3 tiến sĩ, 4 phó bảng), 97 cử nhân, 315 tú tài. Người khai khoa cho làng là cụ Nguyễn Thiện Sĩ sinh năm 1501. Năm 1522 đỗ cử nhân. Người có bằng cấp cao nhất trong làng là cụ Đặng Xuân Bảng sinh năm 1828; năm 1856 đỗ Tam giáp tiến sĩ đệ nhất danh. Làng có 4 người làm quan Thượng thư; 4 người làm quan Tuần phủ; 4 người làm quan Tổng đốc; 23 người làm quan giúp việc triều đình; 69 người làm quan Tri phủ, Tri huyện; còn lai số người đỗ đạt trên đi làm thầy giáo, thầy thuốc ở khắp nơi.
Thời học chữ Pháp, làng có 51 người đỗ đạt từ tú tài đến cử nhân, trong đó có Đặng Xuân Khu tốt nghiệp cao đẳng Thương mại Đông Dương.
Thời hiện đại, làng Hành Thiện vẫn là ngôi làng có nhiều người học hành giỏi giang thi cử đỗ đạt nhiều nhất so với mọi ngôi làng trong tỉnh Nam Định. Cụ thể là: 88 người được Nhà nước phong hàm giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ và trên 600 người có bằng cử nhân. Trong khi đó dân số của làng chỉ có trên 6000 người. Vậy nên thời hiện đại vẫn có câu ngạn ngữ ''Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện''. Làng Thủy Nhai, cách Hành Thiện không xa là một làng thiên chúa giáo rất có tài làm đậu phụ. Còn Hành Thiện, dường như gia đình nào cũng có người đỗ Tú tài.
Làng có 4 tướng lĩnh quân đội là Đặng Quốc Bảo, Đặng Kinh, Đặng Quân Thụy, Nguyễn Sĩ Quốc; 2 Anh hùng Lực lượng vũ trang là Phạm Gia Triệu, Nguyễn Đăng Kính. Hàm Bộ trưởng có Đặng Hồi Xuân, Đặng Vũ Chư. Tương hàm giáo sư có: Đặng Vũ Khiêu, Đặng Xuân Kỳ, Đặng Vũ Minh. Nhà văn Đặng Vũ Khiêu là Anh hùng Lao động.
d- LàngTiến Sĩ.
Người dân vùng đất Hải Dương có câu: "Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm". Đó là câu ca ca ngợi làng Đọc (làng Quan Tiền) là làng giàu nhất vùng, làng Nhữ nhiều thóc nhất vùng, còn làng Chằm (tên cúng cơm của làng Mộ Trạch) có nhiều người học giỏi đỗ cao nhất vùng còn được gọi là Làng tiến sĩ xứ Đông. Làng Mộ Trạch thuộc huyện Đường An, tỉnh Hải Dương nay là huyện Bình Giang - Hải Dương. Đây là một làng quê bình dị như bao làng quê khác vùng đồng bằng Bắc Bộ, lấy nghề nông làm trọng, ngoài ra còn có các nghề phụ như nghề mộc, dệt vải. Nhưng ở đây ta có thể tìm thấy một sự mẫu mực về tính hiếu học mà ít làng quê Việt Nam nào có được.
Tiếng thơm của làng không những đi vào dân gian mà còn được chính các bậc Đế Vương thừa nhận. Dực Anh Tôn Hoàng đế (Vua Tự Đức) từng phải thốt lên rằng: "Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ" (một làng Mộ Trạch tài bằng nửa cả nước). Không phải ngẫu nhiên mà vua Tự Đức vốn thông minh hay chữ lại phải trầm trồ khen ngợi như vậy. Khởi nguồn để vua Tự Đức phải nhả "lời vàng" ấy chính là vào khoa thi năm Bính Thân năm 1656, Triều vua Lê Thần Tôn, cả nước chỉ chọn được 6 vị đỗ tiến sĩ thì làng Mộ Trạch đã chiếm 3 vị mà tuổi chỉ từ 21 đến 23 tuổi. Đó là Vũ Trác Lạc (21), Vũ Đăng Long (23) và Vũ Công Lượng (22).
Kết quả được công bố, thấy làng Mộ Trạch đỗ nhiều, triều đình có sự ngờ vực nên bí mật rà xét lại việc thi cử. Triều đình chọn một quan giám khảo ra đề rất khó. Các thí sinh mỗi người phải ngồi trong một hố sâu làm bài thi. Trên mỗi hố úp một lồng để ngăn cách hoàn toàn giữa các thí sinh và quan giám khảo ngồi trên một lều cao quan sát. Chung cuộc các "sĩ tử" làng Mộ Trạch vẫn chiếm phân nửa số người đỗ, khiến Vua hết sức hài lòng, khâm phục và tin dùng.
Có nhiều điều ngạc nhiên về bảng vàng khoa cử của làng Mộ Trạch, bởi vì làng Mộ Trạch chính là làng văn hiến nổi tiếng, là nơi "chôn nhau cắt rốn" của Trạng Cờ Vũ Huyến (người chỉ với 10 nước cờ giúp Vua thắng Xứ thần phương Bắc bằng mẹo đánh cờ giữa trưa nắng để chỉ nước đi cho Vua qua kẽ tia nắng của chiếc lọng), của Trạng Toán Vũ Hữu (người tính toán xây thành Thăng Long không thừa không thiếu một cân nguyên vật liệu và cũng là tác giả của cuốn sách "Lập thành toán pháp"), Trạng Vật Vũ Phong, Trạng Chạy Vũ Cương Trực và Trạng Chữ Lê Nai (đỗ Trạng Nguyên). Mộ Trạch cũng là quê hương của 36 tiến sĩ đại khoa (kể từ thời nhà Trần đến thế kỷ 18).
Mở đầu trong "Bảng vàng tiến sĩ" của làng là hai anh em ruột Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi, cùng đỗ thái học sinh năm giáp thìn (1504) triều vua Trần Anh Tôn. Cha của hai ông chính là Vũ Nạp - phó tướng của Trần Quốc Bảo. Với chiến công đánh tan quân Nguyên trong trận Bạch Đằng, bắt sống tướng Ô Mã Nhi, Vũ Nạp được Vua ban bài vị và phong "Đồng giang hầu tả tướng quân".
Có thể khẳng định trải suốt hơn 5 thế kỷ từ triều Trần qua triều Lê, Mạc đến thời Vua Lê, Chúa Trịnh, luôn luôn có các bậc anh tài làng Mộ Trạch mà trong đó đa phần là ruột thịt dòng họ Vũ, từng ra vào giáp mặt nhau như "cơm bữa" tại triều đình. Xin được đơn cử trường hợp cụ Vũ Quốc Sĩ, cụ là người có 5 con trai thì cả 5 người cùng làm quan to trong triều đình, trong đó có 3 người đỗ tiến sĩ. Trường hợp khác là Cụ Vũ Duy Chí - người đã làm quan tới chức Tể tướng qua hai triều Vua Lê. Cũng phải kể đến trường hợp 3 đời con trưởng cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Vua Lê Thánh Tôn, đó là Vũ Bạt Tụy (ông), Vũ Duy Đoán (cha), Vũ Duy Khuông (cháu).
Những sự lạ ở mảnh đất Mộ Trạch nhỏ bé thì còn rất nhiều mà người viết không thể kể ra hết. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ tôn vinh Mộ Trạch là làng tiến sĩ, là làng tài "độc nhất vô nhị" ở đất Việt mình. Sở dĩ làng Mộ Trạch có nhiều người học giỏi đỗ cao như vậy bởi vì nơi đây là mảnh đất có truyền thống hiếu học, khuyến học hơn bất cứ nơi đâu. Tất cả con trai đều chăm chỉ dùi mài kinh sử để mong có ngày đỗ đạt chốn khoa trường.
Điều thú vị là tất cả những thí sinh của làng muốn lên Kinh dự thi đều phải đăng ký vào sổ thi của làng và dứt khoát phải vượt qua kỳ thi thử tại quán Kỳ Anh nơi đầu làng. Những người có khoa bảng trong làng làm nhiệm vụ khảo xét bồi dưỡng lớp con em để họ có đủ năng lực và phẩm chất trước khi thi tài với thiên hạ. Nhờ truyền thống giáo dục tốt mà người làng Mộ Trạch đã chiếm bảng vàng rực rỡ trong các kỳ triều đình mở hội thi. Điều đặc biệt là người làng Mộ Trạch dù làm quan tới chức nào cũng không ham lo xây dựng dinh thự mà luôn một lòng phục vụ đất nước, chăm lo chúng dân.
Noi gương truyền thống cha ông, ngày nay con cháu cụ tổ họ Vũ làng Mộ Trạch cũng hết sức chăm chỉ học hành, mong thành đạt để góp phần xây dựng quê hương đất nước. Ngôi trường cấp 1 - 2 được xây dựng trong xã mà số đông học sinh là con em của làng Mộ Trạch theo học. Còn tại trường cấp 3 Bình Giang, nếu cứ học sinh của 3 xã khác hợp thành một lớp thì chỉ riêng học sinh của xã Tân Hồng (làng Mộ Trạch chiếm hơn phân nửa) cũng đủ một lớp rồi. Nếu xưa kia bảng vàng khoa cử của các thế hệ cha ông đã tôn vinh làng Mộ Trạch thành "Làng tiến sĩ" thì ngày nay truyền thống hiếu học vẫn được duy trì và thành tích học tập, đỗ đạt của thế hệ con cháu Mộ Trạch cũng ít làng quê nào sánh kịp.
Có thể kể ra đây gia đình bác Vũ Đăng Giáp - một gia đình nghèo đến mức phải ở nhờ nhà thờ nọ. Vợ mất sớm bác phải nuôi 4 người con trai đi học. Mấy bố con tần tảo nuôi nhau, đến nay cả 4 người con đều tốt nghiệp đại học và cao đẳng và được nhà nước trọng dụng. Gia đình bác Vũ Xuân Phổ hết lòng chăm lo con cái học tập, nay một người là phó tiến sĩ còn 3 người khác đều đã tốt nghiệp đại học. Số người làm nghề dạy học ở Mộ Trạch thì chắc chắn nhiều hơn bất cứ một làng quê nào vì Mộ Trạch có truyền thống từ lâu làm nghề này.
Ngoài ra, có rất nhiều người con của Mộ Trạch vì những lý do khác nhau phải xa quê hương nay đã thành đạt và tìm về cội nguồn. Trong số đó có thể kể ra như Tiến sĩ vật lý nguyên tử Vũ Khắc Thinh hiện đang nghiên cứu tại Nhật Bản, Tiến sĩ văn học Đặng Vũ Phương Chi đang công tác tại Paris, Giáo sư - Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, Giáo sư Vũ Khiêu... Tất cả đều là con cháu họ Vũ làng Mộ Trạch, tìm về quê hương với lòng thành thắp nén hương tưởng niệm người đã sinh ra dòng họ của mình.
Nói về khoa cử, về tài năng của Mộ Trạch trước kia cũng như truyền thống hiếu hoc ngày nay thì còn rất nhiều điều thú vị. Nếu bạn muốn tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn xin mời bạn xuôi quốc lộ 5 về xứ Đông - Hải Dương, đất lành Mộ Trạch luôn rộng lòng đón bạn. Ngày mồng 8 tháng giêng hàng năm là ngày hội làng, con cháu họ Vũ Mộ Trạch khắp mọi nơi sẽ tìm về với quê hương vui ngày lễ hội và thắp nén hương tưởng nhớ người đã sinh ra dòng họ Vũ và tưởng nhớ cả các thế hệ cha ông đã góp phần lưu danh thơm làng Mộ Trạch đến muôn đời sau.
Trải bao đời thanh bạch có nhau
Cụ Vũ Huy ở bên tàu
Thuộc tỉnh Phúc Kiến - Thường Châu là nhà
Vốn nho gia lại là nhà địa lý
Sang Việt Nam chủ ý tầm long
Đi đến Nam Sách tỉnh Đông
Thấy đất bách nhạn bay trông hồi sào
Đem mộ tổ táng vào chính huyệt
Đất công khanh phát tiếp muôn đời
…….
Một miếng đất như chìm như nổi
Trăm nhạn bay tụ hội hồi sào
Giữa đồng gò đống nổi cao
Địa danh Nam Sách huyệt giao toàn tài
Qua ngày một ngày hai ấn định
Đưa tổ về chính huyệt tang treo
Rằng như sách dạy mang theo
Đất này mãi mãi phát nhiều công khanh
Cụ Vũ Huy ở bên tàu
Thuộc tỉnh Phúc Kiến - Thường Châu là nhà
Vốn nho gia lại là nhà địa lý
Sang Việt Nam chủ ý tầm long
Đi đến Nam Sách tỉnh Đông
Thấy đất bách nhạn bay trông hồi sào
Đem mộ tổ táng vào chính huyệt
Đất công khanh phát tiếp muôn đời
…….
Một miếng đất như chìm như nổi
Trăm nhạn bay tụ hội hồi sào
Giữa đồng gò đống nổi cao
Địa danh Nam Sách huyệt giao toàn tài
Qua ngày một ngày hai ấn định
Đưa tổ về chính huyệt tang treo
Rằng như sách dạy mang theo
Đất này mãi mãi phát nhiều công khanh
Những Làng khoa bảng nổi tiếng Việt Nam :
Xin được trích dẫn một số bài viết của các tác giả khác để làm dẫn chứng :
a- Thôn Linh khê, Xã Thanh Quang huyện Nam Sách
Thật khó có thể tìm được một làng quê có vẻn vẹn 1075 nhân khẩu, với 300 hộ gia đình, mà trong đó có đến 150 cử nhân các ngành, 7 thạc sĩ, hơn 80 giáo viên các cấp, 50 sinh viên đại học, 1 tiến sĩ tương lai đang làm luận án tại Nhật Bản. Đó là thôn Linh Khê, xã Thanh Quang (Nam Sách - Hải Dương).
Linh Khê, một làng quê bé nhỏ nằm nép mình bên dòng sông Kinh Thầy, nơi cách đây mấy chục nǎm đã ghi nhận sự trưởng thành của thầnđồng thơ Trần Đǎng Khoa; và cách xa hơn 7 thế kỷ là sự xuất hiện lừng lẫy của Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Cạnh tấm bia cổ của di tích, ông Đỗ Minh Hoàng, một nhà giáo về hưu cho biết, từ xa xưa dân làng Linh Khê đã có ước muốn được đem cái chữ, kiến thức của đạo làm người dạy bảo học sinh. Chính vì thế, hết thế hệ này nối tiếp thế hệ kia mà đến nay trong cả thôn đã có tổng cộng 85 người làm nghề dạy học ở mọi cấp, mọi nơi.
Lướt nhanh ngón tay, nhà giáo Đỗ Minh Hoàng đã bấm được sơ sơ gần chục gia đình có tới ba đời làm nghề dạy hoc như gia đình cụ Lương Quang Diễn, những gia đình có từ hai giáo viên trở lên thì không thể nhớ hết.... Cá biệt có gia đình cụ Đỗ Vǎn Dần có tổng cộng 10 người làm nhà giáo.
Nǎm nay, cả thôn có hơn mười người đi thithì có tới 7 em đỗ đại học với số điểm cao vào các trường “rắn” như: ĐH Bách Khoa, ĐH Xây Dựng, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền,...
Làng Linh Khê đã chứng kiến rất nhiều câu chuyện cảm động đến chảy nước mắt về các gia đình nuôi con học đại học. Nào thì nhà bán ruộng, bán đất; nào thì nhà bố mẹ làm lụng vất vả, bữa cơm chỉ có quả cà bát canh để còn dành dụm từng đồng, tháng tháng gửi cho các con; có nhà thì ông bố sẵn sàng đi đào mộ thuê vào dịp cuối nǎm cũngchỉ với một mục đích duy nhất là để kiếm tiền cho con ǎn học.
Khó khǎn là vậy, nhưng dân làng Linh Khê cũng vì thế mà ngày càng toả sáng hơn với thế hệ trẻ hôm nay. Những tấm bằng kĩ sư, cử nhân mà con em quê hương đạt được ngày một nhiều.
b- Bắc Cổ Am nam Hành Thiện
Quê hương Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Quê hương Vương Quốc Chính, thủ lĩnh Tín nghĩa hội 1879 chống Tây cứu nước.
Tôi cùng kiến trúc sư Phạm Vũ Hội về Cổ Am, theo con đường mà có lẽ ngày xưa Trạng Trình đã đi từ kinh đô về quê để ở ẩn, khi ông chán ngấy cái triều đình nhà Mạc suy đốn. "Thôi thôi mặc lũ thằng hề/Gió mây ta lại tìm về gió mây" (Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - NBK).
Phạm Vũ Hội là một người đa tài. Anh thiết kế kiến trúc, làm thơ, soạn nhạc và nặn tượng. Anh nặn tượng, danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm và nghiên cứu về Trạng Trình với lòng sùng kính một thiên tài. Phạm Vũ Hội còn là tác giả của dự án tôn tạo khu di tích Trạng Trình thuộc vực Cổ Am - Lý Học.
Chúng tôi đến bến phà Khuể. Con sông Văn Úc sóng cuồn cuộn đổ ra biển Đông. Lòng sông rộng, nước vàng đục màu phù sa diễu quanh thân phà - Thuỷ sắc ngưng hoàng lục nhiễu hàng (Quá thao Giang – NBK). Cứ theo thơ vãn của Trạng Trình mà suy thì có lẽ khi qua sông này cũng đã cảm khái nhớ tới Xích xích tuyệt xướng của Tô Đông Pha với câu mở đầu: "Đại Giang Động Thứ, lãng đào tận, thiến cổ phong lưu nhân vật..."- Sông lớn chảy về Đông, cuốn trôi hào kiệt nghìn đời...".
Bên kia sông Vãn Úc là huyện Tiên Lãng, có làng An Tử Hạ, quê vị khoa bảng Nhữ Văn Lan, ông ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là vị tố của họ Nhữ, đỗ tiến sĩ năm 1463, đời Lê, làm đến chức Thượng thư bộ Hộ; sau được thờ ở đình miếu làng An Tử Hạ. Họ Nhữ còn có nhiều người đỗ đại khoa. Ngôi đền An Tử Hạ thờ Nhữ Văn Lan đã bị giặc Pháp đốt phá, nhưng tượng và biển tiến sĩ của ông vẫn còn. Một người con của Nguyễn Bỉnh Khiêm sang quê ngoại lập nghiệp, thành một chi họ Nguyễn lớn ở Tiên Lãng. Ở đây còn có khu Mả Nghè, nơi an táng vợ chồng Nhữ Văn Lan và con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Qua thị trấn Tiên Lãng, đến bến Hàn, nhưng không phải đi đò như ngày xưa mà có cây cầu phao bắc qua sông. Sông Hàn còn gọi là Tuyết Giang. Xưa, bên sông này có quán Trung Tân, nơi Trạng Trình ngồi ngâm vịnh, viết những bài Ngụ hứng và nghiền ngẫm thế cuộc, thiên cơ, quốc vận.
Chợt nhớ câu thơ của Tuyết Giang phu tử (NBK): "...Phong ổn phàm quy hàn phố nguyệt/Thiên tình long hiện viễn sõn vân..." (Gió lặng buồm xuôi về bến lạnh/Trời mây rồng hiện đỉnh non xa. - Trung Tân quán ngụ hứng).
Qua sông Hàn, chúng tôi đi dọc theo đường số 354 đến địa phận Lý Học - Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, vùng đất nổi danh. Phạm Vũ Hội bảo tôi:
- Cụ Trạng tiên lượng việc vị lai như thần. Cái câu ''Bao giờ Tiên Lãng chia đôi, sông Hàn nối lại thì tôi lại về", đến bây giờ mới rõ. Cái năm cầu phao sông Hàn được bắc nối hai huyện Tiên Lãng - Vĩnh Bảo; con sông đào cổ xưa chảy ngang qua Tiên Lãng bị bỏ lấp từ lâu được khơi lại; thì ngay sau đó rộ lên hội thảo, sưu tầm khảo cứu về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được in ra, cả ''Sấm Ký Trạng Trình'' nữa. Thiên tài của Người đã được công nhận và tôn vinh. Thế là Người đã về đúng với ngôi vị của mình. Một thời Sấm Ký bị coi là sách mê tín dị đoan. Bây giờ dùng Lý học mà suy thì có nhiều việc đã xảy ra rất linh nghiệm.
Phạm Vũ Hội giao thiệp với hoạ sĩ Giang Phiếm, là cháu đời thứ mười sáu của Trạng Trình đã đổi thành họ Giang. Một thời cả dòng tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm phải thay tên đổi họ, ly tán thập phương.
Cổ Am nổi tiếng vì vùng đất này sinh nhiều bậc tài danh ở mọi thời. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà khi ra đời, theo giai thoại, quan chiêm bốc chuyên theo dõi thiên tượng của triều đình Bắc phương đã dâng biểu tấu: ''Có ngôi sao lạ to bằng cái đấu xuất hiện ở phương Nam, ứng với một chân nhân đã ra đời''. Sau này, Nguyễn Bỉnh Khiêm được phong tước Trình Tuyền hầu (nên mới gọi là Trạng Trình), Chu Sán, danh sĩ đời nhà Minh nhận xét: ''An Nam Lý học hữu Trình Tuyền'' - Nước Nam có Trình Tuyền hầu thông hiểu Lý số. Có lẽ vì thế mà đất Trung Am, nơi có Đền Trạng bây giờ được gọi là Lý học.
Cổ Am trước khi Trạng Trình xuất thế, có nhiều địa danh mang những tên nôm na để quy ước, chỉ dùng cho mỗi việc định vị địa điểm, như ở nhiều các làng quê khác. Vậy mà khi Trạng Trình về quê ở ẩn thì xuất hiện những tên văn chương: quán Trung Tân, Am Bạch Vân, sông Tuyết Giang, gò Bút Kình Thiên, Nghiên Long Đồ, bãi Lý Ngý Quần Ngọc, cầu Trường Xuân... Về cây cầu Trường Xuân, Phạm Vũ Hội kể: Trước khi phong Trạng nguyên cho thí sinh đỗ đầu khoa thi Đình, vua Tự Đức sát hạch thêm; Ngài hỏi về cầu Trường Xuân. Thí sinh này quê đất Vĩnh Lại, Đông Hải, kinh sử thuộc làu làu, nhưng lại không biết gì về cầu Trường Xuân. Vua hỏi thí sinh đỗ thứ hai quê ở miền Trung. Người này thưa rằng cây cầu đá ấy ở Cổ Am do Trạng Trình cho xây cất để dân đi làm đồng áng đỡ vất vả, trên thân cầu có chữ ''Thường Xuân Kiều'' do chính tay Trạng viết. Sĩ tử đỗ đệ nhất khoa bị giáng xuống thứ ba vì không thâm hiểu về bản quán của mình và về Trạng Trình, phải nhường lại danh khôi nguyên cho anh chàng miền Trung nọ. Vua không vui, cho rằng làm quan mà không thấu hiểu quê hương đất nước thì trị dân sao được. (Phiến đá khắc chữ 'Trường Xuân Kiều'' nay vẫn còn).
Phạm Vũ Hội nói tiếp:
- Cả vùng đất này xưa là Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. Thập bát trang Am, có mười tám trang mang tên Am. Thượng Am, Hạ Am, Trung Am, Đông Am, Nam Am, Lạng Am, Tiền Am, Liên Am, Ngãi Am, Hội Am v.v... Trạng Trình về quê ở ẩn, xây quán Trung Tân ở bến Trung Lệ bên bờ Tuyết Giang, dựng Am Bạch Vân. Người làm hàng nghìn bài thơ Hán, Nôm và Bạch Vân thí tập, Trình Quốc công thi tập... Người còn chủ trương xây chùa tôn thờ các danh nhân; bắc cầu giúp dân. Cổ Am khi ấy rất nghèo. Trạng mở trường dạy học. Người đọc sách thánh hiền đều biết: Kiệt, Trụ ác vương vô đạo ngược đãi trung thần, chí sĩ; chà đạp lễ nghĩa khiến trăm họ ngu hèn để dễ bề cai trị, muôn đời sau còn oán hận. Nghiêu, Thuấn khuyến nông, huấn học làm cho thiên hạ được sống trong thái bình thịnh trị, tiếng thơm ngàn nãm. Nhân tài chẳng tự nhiên mà có như hoa dại bên đường. Để khuyến học, Trạng Trình cho dựng một trụ đá cao trên đỉnh cái gò đầu làng, đặt tên là Bút Kình Thiên.
Chúng tôi đứng lặng ngắm gò đất có những cây sà cừ, bạch đàn đứng thẳng tắp với dáng những ''quản bút chống trời". Trụ đá nay không còn nữa nhưng vẫn còn ngôi miếu cổ tôn nghiêm.
Những cái tên ở Cổ Am thoạt nghe thấy có vẻ chữ nghĩa quá; không nôm na cụ thể như những vùng quê khác để dân quê dễ nhớ. Nhưng ngẫm ra Trạng đâu phải là người khoe chữ. Cổ Am đáng được đặt những tên như thế lắm vì đất này có không ít các bậc khoa bảng đỗ đạt cao ở mọi thời. Trần Lương Bật đỗ tiến sĩ năm 1664, đời Hậu Lê, làm đến chức Hữu thị lang bộ Binh, khi mất còn được truy phong chức Tả thị lang. Trần Công Hân đỗ tiến sĩ năm 1733, thời Hậu Lê; giữ chức Đãi chế Viện Hàn lâm; đi dẹp giặc bị tử trận, được truy phong Đông Các Đại học sĩ. Lê Huy Thái đỗ Phó bảng năm 1846, đời nhà Nguyễn.. .
Sau này Cổ Am còn có hai nhà văn nổi tiếng trên vãn đàn Việt Nam một thời, đó là hai anh em Trần Tiêu, Trần Khánh Dư (tức Khái Hưng trong Tự Lực văn đoàn). Chùa Đông A ở đây do Trần Mỹ, phụ thân của hai nhà văn bỏ công tạo dựng.
Theo các thần phả, thần tích và Từ đĩển Bách khoa Địa danh Hải Phòng thì, cùng với những làng xã thuộc Vĩnh Bảo, Cổ Am thờ nhiều vị thần làm thành hoàng vì có công chống giặc ngoại xâm trong các cuộc bình Chiêm, chinh Man, cự Nam Hán, phá Tống, diệt Nguyên - Mông. Dân Cổ Am dù nghèo nhưng cũng lập đền miếu khang trang để tôn thờ những người bảo hộ dân, những vị quan thương dân như con. Đình, miếu Cổ Am thờ bốn vị thành hoàng trong đó có Không Hoàng đại vương, một vị quan đời Lý, bỏ của riêng phát chẩn cho dân vào năm mất mùa. Nam Hải đại vương tức quan Thái uý Tô Hiến Thành đời Lý, đi tuần qua làng đã ban ơn cho dân chúng. Cổ Am có chùa Mét là công trình kiến trúc đẹp do Trần Khắc Trang chủ xưởng xây cất Hai nhà văn Trần Tiêu và Khái Hýng đều là di duệ của Trần Khắc Trang.
Cổ Am có những dòng họ nổi tiếng. Ngoài họ Nguyễn với Trạng Trình Lưỡng quốc anh hùng không đối thủ, như các môn đệ tôn vinh ông sau này; còn có họ Trần, một họ lớn vốn ở Tức Mạc (Nam Hà) di đến đây khai hoang lập ấp. Theo gia phả họ Trần ở Cổ Am, một vọng tộc có nhiều nhà khoa bảng, thì thủy tổ họ Trần là một vị tướng chỉ huy cánh quân phía Bắc trong trận Hàm Tử nổi tiếng năm 1407, bị trọng thương, được đưa về Cổ Am dưỡng thương rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây.
Cổ Am vào thời nào cũng có hào kiệt. Vương Quốc Chính, đời nhà Nguyễn năm 1879 lập Tín nghĩa Hội, chủ trương bình Tây phục quốc, từng đem nghĩa quân đến tận thành Hà Nội tiến công tập kích quân Pháp. Đầu năm 1930, Trần Quang Diệu, Đào Vãn Thê khởi nghĩa chống Pháp, giết tri phủ, đánh chiếm huyện lỵ, khí thế ngùn ngụt. Robin, thống sứ Bắc Kỳ đã cho máy bay ném xuống Cổ Am đến nãm mươi bảy quả bom (một con số đáng kinh hoàng vào thời đó), rồi dàn quân càn quét, đốt phá; nhưng đã không khuất phục được vùng đất phát tích những bậc kiệt hiệt song toàn văn võ.
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nếu ở quê ngoại của Trạng Trình nổi danh "Tiên Lãng chống càn", thì Vĩnh Bảo - Cổ Am quê nội của Người cũng lừng lẫy với những chiến công diệt giặc trên đường số 10. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không thể thống kê những chiến tích, những hy sinh của người Cổ Am trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc sau này bằng những con số đáng thán phục được viết bởi những bàn tay chuyên cửi canh dệt vải, dệt chiếu, trồng trọt và làm sơn mài...
Nghề dệt chiếu ở đây đã có từ lâu đời và rất phát đạt. Cho dù chiếu ni-lông, chiếu tre, chiếu gỗ đã từng được coi là thời thượng, thì rồi người ta vẫn cứ nằm chiếu gon dệt cói. Biết đâu cái cô gái bán chiếu gon xưa ở Tây Hồ đã làm Ức Trai tiên sinh cảm động sinh tình ở tuổi bảy mươi lại có dây mơ rễ má với đất Cổ Am này? Tôi đã nhìn thấy cảnh những cô gái dệt chiếu. Động tác luồn cói, giật khung, rồi đặt khuôn hoa phết màu; cứ thoăn thoắt nhịp nhàng, mạnh mẽ mà uyển chuyển; bền bỉ thường nhật, nên thân hình các cô rất thẩm mỹ. Khi một mẻ chiếu hoa được đồng loạt phơi dưới nắng, màu sắc rực rỡ bừng lên như ngày hội.
Kiến trúc sư Phạm Vũ Hội nói với tôi về cái dự án tâm huyết của anh:
- Tôi muốn tu tạo những di tích Trạng Trình ở vùng Cổ Am và bên quê ngoại của Người như nó đã từng có theo cảnh sắc của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, và phải giữ vững "chân long'' với những nguyên tắc về Phong thủy. Nên đầu tư một cách tinh tế vào khu Đền Trạng. Thế nhưng người ta đã mở ra một quy hoạch bề rộng, dùng hệ thống giao thông bàn cờ; lại thêm những cột đèn cao áp hình tàu chuối. Nhiều cây cối bị chặt quang làm mất đi vẻ u tịch. Lại còn đào một cái hồ rất lớn, xây kè bờ, lát gạch lá dừa lối đi quanh hồ như một công viên thành phố, theo xu hướng ''đô thị hoá'' hiện nay. Có lẽ lại phải chờ cho đến khi người ta hiểu ra được rằng phải giữ lấy cái tinh thần đạm bạc mà thanh cao của Tuyết Giang phu tử.
*
Chúng tôi đi qua cánh đồng trồng thuốc lào. Những cây thuốc thân thấp mập mạp lá to đang kỳ bánh tẻ, mùi thuốc lá thoảng lẫn trong vị ngọt ngào của ngô non và đòng đòng quanh đấy, như một sự tẩm ướp tinh tế.
Tôi sực nhớ: Cổ Am thuộc xứ thuốc lào. Ai cũng biết câu ca dao: ''Nhớ ai như nhớ thuốc lào/ Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên". Một hơi thuốc rút đến kiệt lửa đóm, rồi phả khói mù mịt làm cảnh vật trước mắt chập chờn ẩn hiện như thực như ảo: ''Thoáng bóng ai về trong khói thuốc/Mắt cười lúng liếng lá răm tươi...”
Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và tập Đồng Khánh dư địa chí lược gọi cây thuốc lào là Tương tư thảo.
''Tương tư thảo'' - Cổ Am, vùng đất văn nhân hào kiệt có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc kỳ tài, và có một loài cây kỳ thú mang cái tên gợi thương nhớ như vậy.
c- Nam Hành Thiện
Từ huyện lỵ (mới) huyện Xuân Trường, Nam Định đi qua giáo phận Bùi Chu, mất khoảng mười phút xe ô tô là đến làng Hành Thiện. Hành Thiện là ngôi làng cổ thuộc hành lang phủ Thiên Trường, cái tên Hành Thiện có từ đời Lê Trung Hưng thứ nhất, năm 1454.
Hành Thiện, tạm giải nghĩa là nơi chỉ làm những điều lành, điều thiện. Bản đồ làng Hành Thiện mang hình một con cá chép: đầu hướng Nam, đuôi hướng Bắc, bụng hướng Tây, lưng hướng Đông. Nơi đầu cá có miếu thờ thần Tam giáp, người có công đầu tạo lập làng. Nơi bụng cá là chợ Hành Thiện, một cái chợ quê rất đông đúc. Khu dân cư ở từ mang cá đến rốn cá, được chia thành 14 khúc, mỗi khúc cách nhau 60 mét. Chiều sâu của khúc dài nhất là 600 mét, khúc ngắn nhất là 200 mét. Mỗi khúc gọi là một dong. Dong dài được chia làm hai xóm, dong ngắn là một xóm. Từ rốn cá đến đuôi cá là ưng điền (ruộng gieo mạ) và nghĩa trang nhân dân của làng. Đuôi và vây sau của "con cá" có ngôi chùa Keo, xây dựng năm 1588. Theo xã chí của làng thì Hành Thiện xưa là vườn kim quất của vua Trần. Chạy dọc từ đầu tới đuôi Cá, sâu chuỗi 14 nãm là một con đường trục của làng lát gạch nghiêng. Đã hàng trăm năm con đường này hình thành nên hai dãy nhà hai bên như một đường phố, có các cửa hàng cửa hiệu buôn bán sầm uất.
Theo cách nhìn của các nhà tử vi thì hình dáng của làng Hành Thiện ở thế cá hoá rồng. Phía ''bụng cá'' giáp làng Ngọc Tiên có hình giống một nghiên mực; phía "lưng cá'' giáp làng Hương Phúc có mảnh đất giống cái ngòi bút. Đầu cá Thành Hoàng ngự, làng sẽ giữ được bản sắc thuần phong. Đuôi cá Nguyễn Minh Không vừa là Thiền sư vừa là thi nhân ngự. Vậy luận theo Phong Thủy và Kinh Dịch thì Hành Thiện là đất phát tiết cho cả chính khách và thi nhân.
Từ xa xưa vùng này đã có câu ngạn ngữ ''Bắc Cổ Am, Nam Hành Thiện'' ngụ ý: làng Cổ Am thuộc tỉnh Hải Dương xứ Đông xưa (nay là Vĩnh Bảo - Hải Phòng) cùng với làng. Hành Thiện của Nam Định có nhiều người học hành đỗ đạt cao. Tại làng Hành Thiện còn có câu ''Trai học hành, gái canh cửi'' để nói rằng cái đáng trọng nhất của con trai Hành Thiện là chuyện đèn sách; cái đáng yêu nhất của con gái Hành Thiện là chuyện kéo tơ, dệt vải. Con gái canh cửi thường trắng nõn nà, khéo tay, chăm chỉ. Đọc thơ Sóng Hồng ta cũng đủ thấy cái không khí của Hành Thiện:
Trăng xuống làm gương em chải tóc
Làm đèn anh học suốt đêm dài
Chẳng hiểu các thầy địa lý chủ quan và khách quan đến đâu nhưng bao đời nay không ai về thăm Hành Thiện lại không thừa nhận: Hành Thiện là một làng địa linh nhân kiệt, khoa danh vang lừng khắp nước. Thời Nho học, làng Hành Thiện có 419 người đỗ đạt. Trong đó: 7 đại khoa (3 tiến sĩ, 4 phó bảng), 97 cử nhân, 315 tú tài. Người khai khoa cho làng là cụ Nguyễn Thiện Sĩ sinh năm 1501. Năm 1522 đỗ cử nhân. Người có bằng cấp cao nhất trong làng là cụ Đặng Xuân Bảng sinh năm 1828; năm 1856 đỗ Tam giáp tiến sĩ đệ nhất danh. Làng có 4 người làm quan Thượng thư; 4 người làm quan Tuần phủ; 4 người làm quan Tổng đốc; 23 người làm quan giúp việc triều đình; 69 người làm quan Tri phủ, Tri huyện; còn lai số người đỗ đạt trên đi làm thầy giáo, thầy thuốc ở khắp nơi.
Thời học chữ Pháp, làng có 51 người đỗ đạt từ tú tài đến cử nhân, trong đó có Đặng Xuân Khu tốt nghiệp cao đẳng Thương mại Đông Dương.
Thời hiện đại, làng Hành Thiện vẫn là ngôi làng có nhiều người học hành giỏi giang thi cử đỗ đạt nhiều nhất so với mọi ngôi làng trong tỉnh Nam Định. Cụ thể là: 88 người được Nhà nước phong hàm giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ và trên 600 người có bằng cử nhân. Trong khi đó dân số của làng chỉ có trên 6000 người. Vậy nên thời hiện đại vẫn có câu ngạn ngữ ''Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện''. Làng Thủy Nhai, cách Hành Thiện không xa là một làng thiên chúa giáo rất có tài làm đậu phụ. Còn Hành Thiện, dường như gia đình nào cũng có người đỗ Tú tài.
Làng có 4 tướng lĩnh quân đội là Đặng Quốc Bảo, Đặng Kinh, Đặng Quân Thụy, Nguyễn Sĩ Quốc; 2 Anh hùng Lực lượng vũ trang là Phạm Gia Triệu, Nguyễn Đăng Kính. Hàm Bộ trưởng có Đặng Hồi Xuân, Đặng Vũ Chư. Tương hàm giáo sư có: Đặng Vũ Khiêu, Đặng Xuân Kỳ, Đặng Vũ Minh. Nhà văn Đặng Vũ Khiêu là Anh hùng Lao động.
d- LàngTiến Sĩ.
Người dân vùng đất Hải Dương có câu: "Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm". Đó là câu ca ca ngợi làng Đọc (làng Quan Tiền) là làng giàu nhất vùng, làng Nhữ nhiều thóc nhất vùng, còn làng Chằm (tên cúng cơm của làng Mộ Trạch) có nhiều người học giỏi đỗ cao nhất vùng còn được gọi là Làng tiến sĩ xứ Đông. Làng Mộ Trạch thuộc huyện Đường An, tỉnh Hải Dương nay là huyện Bình Giang - Hải Dương. Đây là một làng quê bình dị như bao làng quê khác vùng đồng bằng Bắc Bộ, lấy nghề nông làm trọng, ngoài ra còn có các nghề phụ như nghề mộc, dệt vải. Nhưng ở đây ta có thể tìm thấy một sự mẫu mực về tính hiếu học mà ít làng quê Việt Nam nào có được.
Tiếng thơm của làng không những đi vào dân gian mà còn được chính các bậc Đế Vương thừa nhận. Dực Anh Tôn Hoàng đế (Vua Tự Đức) từng phải thốt lên rằng: "Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ" (một làng Mộ Trạch tài bằng nửa cả nước). Không phải ngẫu nhiên mà vua Tự Đức vốn thông minh hay chữ lại phải trầm trồ khen ngợi như vậy. Khởi nguồn để vua Tự Đức phải nhả "lời vàng" ấy chính là vào khoa thi năm Bính Thân năm 1656, Triều vua Lê Thần Tôn, cả nước chỉ chọn được 6 vị đỗ tiến sĩ thì làng Mộ Trạch đã chiếm 3 vị mà tuổi chỉ từ 21 đến 23 tuổi. Đó là Vũ Trác Lạc (21), Vũ Đăng Long (23) và Vũ Công Lượng (22).
Kết quả được công bố, thấy làng Mộ Trạch đỗ nhiều, triều đình có sự ngờ vực nên bí mật rà xét lại việc thi cử. Triều đình chọn một quan giám khảo ra đề rất khó. Các thí sinh mỗi người phải ngồi trong một hố sâu làm bài thi. Trên mỗi hố úp một lồng để ngăn cách hoàn toàn giữa các thí sinh và quan giám khảo ngồi trên một lều cao quan sát. Chung cuộc các "sĩ tử" làng Mộ Trạch vẫn chiếm phân nửa số người đỗ, khiến Vua hết sức hài lòng, khâm phục và tin dùng.
Có nhiều điều ngạc nhiên về bảng vàng khoa cử của làng Mộ Trạch, bởi vì làng Mộ Trạch chính là làng văn hiến nổi tiếng, là nơi "chôn nhau cắt rốn" của Trạng Cờ Vũ Huyến (người chỉ với 10 nước cờ giúp Vua thắng Xứ thần phương Bắc bằng mẹo đánh cờ giữa trưa nắng để chỉ nước đi cho Vua qua kẽ tia nắng của chiếc lọng), của Trạng Toán Vũ Hữu (người tính toán xây thành Thăng Long không thừa không thiếu một cân nguyên vật liệu và cũng là tác giả của cuốn sách "Lập thành toán pháp"), Trạng Vật Vũ Phong, Trạng Chạy Vũ Cương Trực và Trạng Chữ Lê Nai (đỗ Trạng Nguyên). Mộ Trạch cũng là quê hương của 36 tiến sĩ đại khoa (kể từ thời nhà Trần đến thế kỷ 18).
Mở đầu trong "Bảng vàng tiến sĩ" của làng là hai anh em ruột Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi, cùng đỗ thái học sinh năm giáp thìn (1504) triều vua Trần Anh Tôn. Cha của hai ông chính là Vũ Nạp - phó tướng của Trần Quốc Bảo. Với chiến công đánh tan quân Nguyên trong trận Bạch Đằng, bắt sống tướng Ô Mã Nhi, Vũ Nạp được Vua ban bài vị và phong "Đồng giang hầu tả tướng quân".
Có thể khẳng định trải suốt hơn 5 thế kỷ từ triều Trần qua triều Lê, Mạc đến thời Vua Lê, Chúa Trịnh, luôn luôn có các bậc anh tài làng Mộ Trạch mà trong đó đa phần là ruột thịt dòng họ Vũ, từng ra vào giáp mặt nhau như "cơm bữa" tại triều đình. Xin được đơn cử trường hợp cụ Vũ Quốc Sĩ, cụ là người có 5 con trai thì cả 5 người cùng làm quan to trong triều đình, trong đó có 3 người đỗ tiến sĩ. Trường hợp khác là Cụ Vũ Duy Chí - người đã làm quan tới chức Tể tướng qua hai triều Vua Lê. Cũng phải kể đến trường hợp 3 đời con trưởng cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Vua Lê Thánh Tôn, đó là Vũ Bạt Tụy (ông), Vũ Duy Đoán (cha), Vũ Duy Khuông (cháu).
Những sự lạ ở mảnh đất Mộ Trạch nhỏ bé thì còn rất nhiều mà người viết không thể kể ra hết. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ tôn vinh Mộ Trạch là làng tiến sĩ, là làng tài "độc nhất vô nhị" ở đất Việt mình. Sở dĩ làng Mộ Trạch có nhiều người học giỏi đỗ cao như vậy bởi vì nơi đây là mảnh đất có truyền thống hiếu học, khuyến học hơn bất cứ nơi đâu. Tất cả con trai đều chăm chỉ dùi mài kinh sử để mong có ngày đỗ đạt chốn khoa trường.
Điều thú vị là tất cả những thí sinh của làng muốn lên Kinh dự thi đều phải đăng ký vào sổ thi của làng và dứt khoát phải vượt qua kỳ thi thử tại quán Kỳ Anh nơi đầu làng. Những người có khoa bảng trong làng làm nhiệm vụ khảo xét bồi dưỡng lớp con em để họ có đủ năng lực và phẩm chất trước khi thi tài với thiên hạ. Nhờ truyền thống giáo dục tốt mà người làng Mộ Trạch đã chiếm bảng vàng rực rỡ trong các kỳ triều đình mở hội thi. Điều đặc biệt là người làng Mộ Trạch dù làm quan tới chức nào cũng không ham lo xây dựng dinh thự mà luôn một lòng phục vụ đất nước, chăm lo chúng dân.
Noi gương truyền thống cha ông, ngày nay con cháu cụ tổ họ Vũ làng Mộ Trạch cũng hết sức chăm chỉ học hành, mong thành đạt để góp phần xây dựng quê hương đất nước. Ngôi trường cấp 1 - 2 được xây dựng trong xã mà số đông học sinh là con em của làng Mộ Trạch theo học. Còn tại trường cấp 3 Bình Giang, nếu cứ học sinh của 3 xã khác hợp thành một lớp thì chỉ riêng học sinh của xã Tân Hồng (làng Mộ Trạch chiếm hơn phân nửa) cũng đủ một lớp rồi. Nếu xưa kia bảng vàng khoa cử của các thế hệ cha ông đã tôn vinh làng Mộ Trạch thành "Làng tiến sĩ" thì ngày nay truyền thống hiếu học vẫn được duy trì và thành tích học tập, đỗ đạt của thế hệ con cháu Mộ Trạch cũng ít làng quê nào sánh kịp.
Có thể kể ra đây gia đình bác Vũ Đăng Giáp - một gia đình nghèo đến mức phải ở nhờ nhà thờ nọ. Vợ mất sớm bác phải nuôi 4 người con trai đi học. Mấy bố con tần tảo nuôi nhau, đến nay cả 4 người con đều tốt nghiệp đại học và cao đẳng và được nhà nước trọng dụng. Gia đình bác Vũ Xuân Phổ hết lòng chăm lo con cái học tập, nay một người là phó tiến sĩ còn 3 người khác đều đã tốt nghiệp đại học. Số người làm nghề dạy học ở Mộ Trạch thì chắc chắn nhiều hơn bất cứ một làng quê nào vì Mộ Trạch có truyền thống từ lâu làm nghề này.
Ngoài ra, có rất nhiều người con của Mộ Trạch vì những lý do khác nhau phải xa quê hương nay đã thành đạt và tìm về cội nguồn. Trong số đó có thể kể ra như Tiến sĩ vật lý nguyên tử Vũ Khắc Thinh hiện đang nghiên cứu tại Nhật Bản, Tiến sĩ văn học Đặng Vũ Phương Chi đang công tác tại Paris, Giáo sư - Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, Giáo sư Vũ Khiêu... Tất cả đều là con cháu họ Vũ làng Mộ Trạch, tìm về quê hương với lòng thành thắp nén hương tưởng niệm người đã sinh ra dòng họ của mình.
Nói về khoa cử, về tài năng của Mộ Trạch trước kia cũng như truyền thống hiếu hoc ngày nay thì còn rất nhiều điều thú vị. Nếu bạn muốn tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn xin mời bạn xuôi quốc lộ 5 về xứ Đông - Hải Dương, đất lành Mộ Trạch luôn rộng lòng đón bạn. Ngày mồng 8 tháng giêng hàng năm là ngày hội làng, con cháu họ Vũ Mộ Trạch khắp mọi nơi sẽ tìm về với quê hương vui ngày lễ hội và thắp nén hương tưởng nhớ người đã sinh ra dòng họ Vũ và tưởng nhớ cả các thế hệ cha ông đã góp phần lưu danh thơm làng Mộ Trạch đến muôn đời sau.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét