1. TỲ HƯU
Tỳ Hưu là một trong bộ “Tam Đại Thần Thú” gồm có: Kỳ Lân, Sư Tử, Tỳ Hưu. Tương truyền, Tỳ Hưu là con của Rồng. Rồng sinh ra chín đứa con, là chín loài thần thú nhưng đều không phải là rồng,. Tì Hưu được cho là một trong chín loại dị thú này. Tỳ Hưu (hay còn gọi là: Tu Lỳ) đầu như Kỳ Lân, nhưng do là con rồng nên hình dáng thon dài, có cánh trên lưng. Tỳ Hưu có hai loại:
- Tỳ Hưu một sừng là giống cực kỳ hung dữ, chuyên cắn hút tinh huyết của các loài yêu quái, ma quỷ nên còn gọi là con Tịch Tà.
- Loại Tỳ Hưu hai sừng là loài chuyên hút vàng bạc, châu báu trong trời đất nên được cho là con vật giữ tài lộc hay còn gọi là Thiên Lộc.
Tỳ Hưu có đặc điểm miệng to, ngực to, mông to nhưng không có hậu môn. Khi Tỳ Hưu đi một cặp thì con cái gọi là Tỳ, con đực gọi là Hưu. Theo truyền thuyết thì Tỳ Hưu là con của Rồng, khi mới sinh ra Tỳ Hưu đã không có hậu môn, do đó sau khi chào đời không lâu đã chết đi, khi ấy Ngọc Hoàng thấy con vật kỳ dị cứ kêu khóc rất thương tâm liền nghĩ một phần lỗi cũng do mình, nên đã cho Tỳ Hưu quay trở lại nhân gian làm thần chuyên giữ tài lộc trong nhà cho con người. Tỳ Hưu do chết sau khi chào đời không lâu nên tính rất trẻ con, không cho nó ăn nó sẽ mè nheo đòi ăn, bản thân lại thích nơi sạch sẽ cho nên khi thỉnh về người chủ cần phải để nó tại cung tốt theo bản mệnh của mình, vị trí đó cần phải thoáng, sạch sẽ và quan trọng là phải hướng Tỳ Hưu ra cửa. Khi thỉnh Tỳ Hưu về tới nhà thì người Chủ cần phải xoa người của nó theo trình tự để thu phục: trước tiên xoa tai để nó biết nghe lời chủ và biết chủ nó là ai (không xoa và mắt), rồi xoa xuống miệng (không được xoa răng) tượng như cho nó ăn, xoa đến cánh, xoa chân cho nó, và xoa đến mông, cuối cùng nắm bàn tay lại và bỏ vào túi của mình, tượng như cho Tỳ Hưu nạp châu báu mà nó nuốt vào bụng rồi vào túi của Chủ.
Về màu sắc : Tỳ Hưu có nhiều loại và nhiều màu khác nhau, loại Tịch Tà thường dùng để bảo vệ chủ nhân và tích lũy tài lộc, loại Thiên Lộc thì chuyên về kích tài. Về màu sắc thì nên căn cứ theo ngũ hành nơi đặt Tỳ Hưu và mệnh của gia chủ. Màu đen thì đặt tại Bắc, Tây Bắc có tác dụng chiêu tài và tăng phò trợ của Quý Nhân. Tỳ Hưu màu trắng thì đặt ở Tây – Tây Nam có tác dụng bảo vệ chủ nhân, gia tăng hạnh phúc, tình cảm và tăng hổ trợ cho con cái học hành. Tỳ Hưu màu xanh thì đặt ở Đông – Đông Bắc có tác dụng tăng cường may mắn trong công danh, tri thức và sức khỏe. Màu đỏ nên đặt tại Nam – Đông Nam, có công dụng kích thích gia tăng tài sản và địa vị. Ngoài ra Tỳ Hưu còn có tác dụng hóa giãi “Ngũ hoàng đại sát”. Ngũ hoàng đại sát là một sát tinh trong phong thủy của phái Huyền Không. Mổi vận, năm hung tinh này thay đổi một lần, hung tinh này đi đến đâu sẽ mang nguy hiểm đến đó, để trấn hung tinh này có nhiều cách, trong đó điều cần nhất là phải để khu vực có hung tinh này yên tịnh và có thể đặt tại cung có hung tinh này một hoặc hai con Tỳ Hưu, đầu Tỳ Hưu phải hướng về phía cửa, thì có thể hóa giãi sát khí của ngũ hoàng đại sát.
TƯƠNG TRUYỀN VỀ CON TỲ HƯU
Tương truyền, thời vua Minh Thái Tổ khi lập nghiệp gặp lúc ngân khố cạn kiệt, vua rất lo lắng. Trong giấc mơ vàng, vua thấy có con vật đầu lân mình to, chân to lại có sừng trên đầu xuất hiện ở khu vực phía trước cung điện nuốt nhanh những thỏi vàng ròng sáng chói mang vào trong cung vua.
Theo thầy phong thủy tính toán, khu vực xuất hiện con vật ấy là cung tài và đất ấy là đất linh, như vậy, theo đó giấc mơ đã ứng với việc trời đất muốn giúp nhà vua lập nghiệp lớn. Sau đó vua Minh Thái Tổ cho xây một cổng thành to trên trục Bắc Nam, đường dẫn vào Tử Cấm thành, ngay tại cung tài ấy.
Con linh vật ấy có mặt giống con lân đực nhưng lại có râu, mình to, mông to như mông bò, đuôi dài, có chùm lông đuôi rậm. Con vật này không ăn thức ăn bình thường mà chỉ ăn vàng, bạc, đặc biệt nó không có hậu môn, do vậy vàng bạc nó ăn vào không bị thoát đi đâu, cho dù no căng bụng.
Sau khi có linh vật ấy, ngân khố nhà Minh ngày càng đầy. Sau đó, vua cho tạc tượng con linh vật trên bằng ngọc phỉ thúy và đặt trên lầu cao của khu “Tài môn”. Từ đấy, nhà Minh ngày càng mở rộng địa giới và trở thành triều đại giàu có.
Khi nhà Mãn Thanh lên ngôi vua, họ vẫn rất tin vào sự mầu nhiệm của con vật linh kia và đặt tên cho nó là con Kỳ Hưu hay cũng gọi là Tỳ Hưu. Nhà Thanh cho tạc nhiều tượng con Tỳ Hưu đặt tại cung vua và hoàng hậu. Các cung công chúa, hoàng tử đều không được đặt con Tỳ Hưu. Các quan càng không được dùng cho nhà mình, bởi quan không được giàu hơn vua.
Thời ấy, ai dùng thứ gì giống vua dùng là phạm thượng. Nhưng với sự linh nghiệm của con vật này khiến các quan lại lén lút tạc tượng con Tỳ Hưu đặt trong phòng kín, ngay cung tài nhà mình để “dẫn tiền vào nhà”.
Muốn tạc tượng phải gọi thợ điêu khắc và thế là thợ điêu khắc cũng tự tạc cho mình một con để trong buồng kín, cầu tài. Cứ thế, các đời sau, con, cháu thợ khắc ngọc cũng biết sự linh nghiệm ấy mà tạc tượng Tỳ Hưu để trong nhà, cầu may.
Hòa Thân và con Tỳ Hưu
Trong truyền thuyết về Tỳ Hưu có chuyện liên quan đến Hòa Thân, một nhân vật lẫy lừng về mưu mẹo, gian thâm và cực giàu trong lịch sử nhà Thanh. Thiếu thời nhà Hòa Thân rất nghèo, nghèo đến nỗi không có đủ 10 lượng bạc nộp cho quan để xin nhận lại chức quan nhỏ của cha truyền lại. Nhờ ông Liêm (sau này là cha vợ) cho 10 lạng bạc mà Hòa Thân có cơ hội bước vào quan trường. Thời vua Càn Long, Hòa Thân là nhân vật “dưới một người trên triệu triệu người”. Ngân khố nhà vua ngày càng vơi mà nhà Hòa Thân ngày càng giàu. Đến khi Hòa Thân bị giết; quan quân đã tá hỏa khi thấy tài sản Hòa Thân bị tịch thu nhiều gấp 10 lần ngân khố nhà vua đang có. Hòa Thân có 2 vật trấn trạch được cất giấu trong núi đá giả đó là con tỳ hưu và chữ Phúc do chính vua Khang Hy viết tặng bà nội, nhân ngày mừng thượng thọ. Khi đập vỡ hòn giả sơn, các quan mới phát hiện trong núi đá ấy có con tỳ hưu. Mà con tỳ hưu của Hòa Thân to hơn tỳ hưu của vua.
Ngọc tạc con tỳ hưu là ngọc phỉ thúy xanh lý mát rượi, trong khi vua chỉ dám tạc bằng bạch ngọc. Bụng và mông con tỳ hưu của Hòa Thân to hơn bụng, mông con tỳ hưu của vua và như thế khiến Hòa Thân nhiều vàng bạc hơn vua. Sau khi tịch thu con tỳ hưu, nhà vua không thể tịch thu chữ “Phúc” kia được bởi chữ Phúc đã được gắn chết vào đá hồng ngọc; nếu đập đá ra lấy chữ thì đá sẽ vỡ, như thế thì phúc tan. Mà chữ thì do vua Khang Hy viết nên không ai dám phạm thượng. Thế là đành để “Phúc” lại cho nhà Hòa Thân, có lẽ vì thế nên dù phạm nhiều tội tày đình nhưng Hòa Thân chỉ chết một mình, thay vì phải bị tru di tam tộc.
vothuong






